LĂNG
KÍNH
ĐỀ MỤC
III.1. Giới thiệu về
lăng kính
III.2. Các loại lăng
kính
III.3. Đường truyền của
tia sáng qua lăng kính
III.4. Các công thức
lăng kính
III.5. Công dụng của
lăng kính
NỘI DUNG
III.1. Giới thiệu về
lăng kính
Lăng kính là một dụng cụ quang học, sử dụng
để khúc xạ, phản xạ và tán xạ ánh
sáng sang các màu quang phổ (như
màu sắc của cầu vồng).
Lăng kính thường được làm theo dạng kim tự tháp đứng, có đáy là hình tam giác.
Hình ảnh lăng kính tam giác gồm cạnh, đáy và hai mặt bên
Tia sáng
đi từ một môi trường (như môi trường không khí) sang một môi trường khác (như thủy tinh trong
lăng kính), nó sẽ bị chậm lại, và giống như kết quả, nó sẽ hoặc bị cong (khúc
xạ) hoặc bị phản xạ hoặc đồng thời xảy ra cả hai hiện tượng trên. Góc mà tia
sáng hợp với trục thẳng góc tại điểm mà tia sáng đi vào trong lăng kính được
gọi là góc tới, và góc tạo
ra ở đầu bên kia, qua quá trình khúc xạ được gọi là góc ló. Tương tự, tia sáng đi vào
trong lăng kính được gọi là tia
tới và tia sáng đi ra ngoài lăng kính được gọi là tia ló.
Các lăng kính phản xạ được
sử dụng để phản xạ ánh sáng, ví dụ như các ống nhòm,
vì, nhờ hiện tượng phản xạ toàn phần, chúng dễ dàng được sử dụng
hơn là các gương. Các lăng
kính tán sắc được sử dụng để chia ánh sáng thành các thành phần
quang phổ màu, bởi vì độ khúc xạ của chúng phụ thuộc vào bước sóng của tia sáng (hiện tượng tán sắc);
khi một tia sáng trắng đi vào trong lăng kính, nó có một góc tới xác định, trải
qua quá trình khúc xạ, và phản xạ bên trong lăng kính, dẫn đến việc tia sáng bị
bẻ cong, hay gập khúc, và vì vậy, màu sắc của tia sáng ló sẽ khác nhau. Ánh
sáng màu xanh có bước sóng nhỏ hơn ánh sáng màu đỏ và vì vậy nó cong hơn so với
ánh sáng màu đỏ. Cũng có loại lăng
kính phân cực, nó có thể chia ánh sáng thành các thành phần phân cực
khác nhau.
Hình ảnh ống
nhòm
Isaac Newton là
người đầu tiên cho rằng các lăng kính có thể chia ánh sáng ra các màu từ ánh
sáng trắng. Newton đã đặt một lăng kính thứ hai, nơi mà các ánh sáng sau khi
tán sắc sẽ đi vào trong nó, và tìm thấy rằng, các màu sắc không hề thay đổi.
Ông ấy kết luận các lăng kính phân chia các màu sắc. Ông còn sử dụng một thấu tính, giống như một
lăng kính thứ hai để tạo ra cầu vồng từ ánh sáng trắng.
Hình ảnh phân tích ánh
sáng trắng
III.2. Các loại lăng
kính
v Lăng kính tán xạ
Lăng kính
tán xạ được dùng để phân tách ánh sáng đa sắc thành những tia sáng đơn sắc, phụ
thuộc vào tần sô của ánh sáng chiếu vào nó. Các loại lăng kính tán xạ:
v Lăng kính phân cực
Lăng kính phân cực
có thể chia chùm sáng thành phần khác nhau. Chúng thường được chế tạo từ vật liệu
phân cực.
• Lăng kính Glan-Foucault
• Lăng kính Glan-Taylor
• Lăng kính Glan-Thompson
• Lăng kính Nicol
• Lăng kính Rochon
• Lăng kính Wollaston
v Lăng kính phản xạ
·
Lăng kính ngũ giác (lăng kính năm mặt)
Lăng kính ngũ giác là loại lăng kính có hình
ngũ giác dùng để đổi hướng tia sáng 1 góc 90° mà không làm ảnh bị lật ngược
trái-phải như gương phẳng hay lăng kính góc vuông. Bên trong lăng kính, tia
sáng phản xạ 2 lần nhưng không phải do hiện tượng phản xạ toàn phần mà do trên
2 mặt đó được phủ 1 lớp phản xạ. Ngược lại, 2 mặt truyền sáng của lăng kính lại
được phủ 1 lớp chống phản xạ. Mặt thứ 5 còn lại không có tác dụng gì về mặt
quang học nên được cắt bớt đi cho gọn.
Lăng kính Porro (đặt tên theo nhà phát minh Ignazio Porro) là loại
lăng kính phản xạ dùng để thay đổi hướng quay của hình ảnh. Nó cấu tạo gồm 1 khối
thủy tinh hình lăng trụ tam giác vuông cân đứng. Tia tới đi vào vuông góc với mặt
cạnh huyền của tam giác, phản xạ toàn phần 2 lần ở 2 cạnh bên rồi lại đi ra ở mặt
cạnh huyền. Tia ló nằm cách tia tới 1 khoảng, song song nhưng ngược chiều với
tia tới. Ảnh tạo bởi lăng kính sẽ bị quay ngược 180° nhưng không bị lật trái-phải
do được phản xạ 2 lần. Vì tia tới và tia ló đều vuông góc với mặt nên ánh sáng
đi qua lăng kính không bị tán sắc.
Đây
là biến thể của lăng kính Porro kép và được đặt theo tên của Ignazio Porro và
Ernst Abbe. Nó có cấu tạo gồm 1 khối thủy tinh có dạng như 4 lăng kính phản xạ
góc vuông gắn áp mặt vào nhau theo kiểu vặn xoắn. Ánh sáng đi vào một mặt phẳng,
phản xạ toàn phần 4 lần ở các mặt nghiêng và đi ra ở một mặt phẳng khác bên cạnh,
song song và cùng chiều với chùm tia tới. Hình ảnh tạo ra được quay ngược 180°
nhưng không bị lật trái-phải do được phản xạ số chẵn lần. Tia tới và tia ló đều
vuông góc với mặt nên ánh sáng đi qua lăng kính không bị tán sắc.
Lăng kính Porro-Abbe thường được dùng trong một
số loại ống nhòm và kính ngắm máy ảnh. Trên thực tế, lăng kính này thường có dạng
1 cặp gồm 2 lăng kính góc vuông kép gắn chặt với nhau. Đôi khi người ta cũng gọi
riêng 1 chiếc lăng kính góc vuông kép trên là lăng kính Porro-Abbe mà không cần
cả cặp.
Lăng kính Porro-Abbe hoàn chỉnh
Một nửa-nhưng
đôi lúc vẫn được gọi là lăng kính Porro-Abbe
Được đặt tên theo Ernst Abbe và Albert König,
lăng kính Abbe–König dùng để đảo ảnh 180° và thường được dùng trong các ống
nhòm và một số loại Kính Thiên Văn. Nó có cấu tạo gồm
2 lăng kính thủy tinh được gắn chặt với nhau tạo thành hình chữ V lùn đối xứng.
Ánh sáng đi vào vuông góc với 1 mặt, phản xạ toàn phần tại 1 mặt nghiêng 30°, rồi
tiếp tục được phản xạ tại bộ phận "mái" ở đáy lăng kính. Sau đó ánh
sáng được phản xạ tại mặt nghiêng 30° đối diện rồi đi ra vuông góc với mặt lăng
kính.
Các lần phản xạ toàn phần làm cho ảnh được lật cả theo chiều dọc và chiều ngang. Kết quả là hình ảnh được quay 180° mà không bị lật trái-phải. Vì vậy hệ lăng kính Albert König được sử dụng như 1 hệ đảo ảnh. Không giống như hệ lăng kính Porro kép thông thường, lăng kính Albert König không làm tia ló dời vị trí so với tia tới. Điều này rất có ích trong một số dụng cụ. Ngoài ra, hệ lăng kính này cũng gọn hơn hệ Porro kép.
Các lần phản xạ toàn phần làm cho ảnh được lật cả theo chiều dọc và chiều ngang. Kết quả là hình ảnh được quay 180° mà không bị lật trái-phải. Vì vậy hệ lăng kính Albert König được sử dụng như 1 hệ đảo ảnh. Không giống như hệ lăng kính Porro kép thông thường, lăng kính Albert König không làm tia ló dời vị trí so với tia tới. Điều này rất có ích trong một số dụng cụ. Ngoài ra, hệ lăng kính này cũng gọn hơn hệ Porro kép.
Lăng
kính Abbe–König đôi khi được gọi tắt là "lăng kính mái", mặc dù gây
nhầm lẫn bởi có nhiều kiểu lăng kính mái khác nhau. Một biến thể của lăng kính
Abbe–König thay thế bộ phận "mái" với một bề mặt phủ lớp phản xạ. Loại
lăng kính này. Đây là loại lăng kính lật ảnh theo chiều dọc, nhưng không phải
theo chiều ngang và làm thay đổi tính trái-phải của ảnh.
Lăng
kính Schmidt–Pechan dùng để quay ảnh 180° và thường được sử dụng trong các ống
nhòm như một hệ đảo ảnh. So với các loại ống nhòm dùng lăng kính Porro kép hay
Abbe-Koenig thì ống nhòm dùng lăng kính Schmidt-Pechan gọn nhẹ hơn.
Lăng kính Schmidt–Pechan là sự kết hợp của 2
lăng kính Schmidt và Pechan. Lăng kính Pechan có cấu tạo gồm 2 lăng kính ngăn
cách nhau bởi 1 khe không khí. Nó có chức năng đảo ảnh hoặc lật ảnh tùy theo hướng
của lăng kính, nhưng không phải cả 2 cùng lúc. Bằng cách thay lăng kính thứ 2
trong hệ Pechan bằng 1 lăng kính Schmidt, lăng kính Schmidt-Pechan cỏ thể cùng
lúc đảo ảnh và lật ảnh và do vậy đóng vai trò như bộ phận xoay ảnh.
Lăng kính Schmidt-Pechan cấu tạo gồm 2 lăng
kính ngăn cách nhau bởi 1 khe không khí. Lăng kính thứ 2, Schmidt, đồng thời đảo
ảnh và lật ảnh, nhưng lại làm hình ảnh bị đổi góc 45°. Lăng kính thứ nhất chình
lại bằng cách làm lệch tia tới 45° trước khi đi vào lăng kính Schmidt. Cả 2
lăng kính được thiết kế sao cho tia tới và tia ló đồng trục nếu hệ được chuẩn
trực đúng quang trục.
Lăng kính phía dưới ứng dụng hiện tượng phản
xạ toàn phần 1 lần, tiếp đến là sự phản xạ bởi bề mặt phủ gương để định hướng
chùm tia vào lăng kính Schmidt thứ 2, vì vậy hướng quay của ảnh không đổi. Lăng
kính phía trên đảo ảnh bằng 3 lần phản xạ toàn phần trong mặt phẳng dọc qua trục
nóc mái. Bộ phận "mái" lật ngang ảnh nhờ 2 lần phản xạ toàn phần trên
2 mái trong mặt phẳng ngang. Cặp phản xạ toàn phần này có thể coi là 1 lần phản
xạ toàn phần trong mặt phẳng dọc. Sự đảo ảnh và lật ảnh kết hợp lại sẽ quay ảnh
180°. Tính trái-phải của ảnh không đổi.
Sự phản xạ tại mặt đáy của lăng kính thứ nhất
không phải do phản xạ toàn phần bởi góc tới nhỏ hơn góc giới hạn. Đây là điểm
khác biệt so với các loại lăng kính mái khác như lăng kính Abbe-Koenig. Mặt này
của lăng kính Schmidt-Pechan đòi hỏi phải được phủ lớp phản xạ.
Lăng
kính Dove (đặt tên theo nhà phát minh Heinrich Wilhelm Dove) có dạng một lăng
kính góc vuông cụt (giống như lăng kính Porro bị cắt mất phần góc vuông), tạo
thành khối hình thang cân mà 2 mặt bên vuông góc với nhau. Chùm tia tới đi vào
một mặt bên của lăng kính, phản xạ toàn phần tại mặt đáy rồi ló ra qua mặt bên
đối diện. Hình ảnh qua lăng kính bị quay ngược 180° đồng thời bị lật trái-phải
do chỉ phản xạ 1 lần.
Lăng
kính Dove còn có 1 tính chất thú vị khác: khi quay lăng kính quanh trục dọc của
nó, hình ảnh cũng quay theo nhưng nhanh gấp đôi. Tính chất này giúp ta có thể
quay ảnh trên-dưới theo một góc bất kì và được ứng dụng vào giao thoa ký, thiên
văn học và nhận dạng vân giao thoa.
Ngoài
ra, Lesso và Padgett (1999) và Moreno cùng cộng sự (2003, 2004) đã phát hiện thấy
trạng thái phân cực của chùm tia sáng truyền qua thay đổi khi ta quay lăng
kính. Điều này có thể ảnh hưởng đến việc đo đạc tín hiệu của các dụng cụ.
·
Lăng kính Porro kép
Lăng kính Porro
thường được dùng theo cặp tạo thành hệ lăng kính Porro kép. Lăng kính thứ 2 được
đặt quay góc 90° so với lăng kính thứ 1 sao cho tia sáng đi qua cả 2 lăng kính.
Kết quả cuối cùng thu được là tia ló song song và cùng chiều với tia tới, hình ảnh
tạo ra sẽ quay ngược 180° nhưng không bị lật trái-phải giống như lăng kính đơn.
Hệ lăng kính
Porro kép thường được sử dụng trong các kính thiên văn quang học cỡ nhỏ và đặc
biệt là trong các ống nhòm với chức năng đảo ảnh, đồng thời làm tăng độ dài
quang học (đường đi tia sáng) nhưng không làm tăng chiều dài thiết bị.
/
/
Lăng kính mái Amici (được đặt tên theo người phát minh ra
nó: nhà thiên văn học người Ý Giovanni Amici) là loại lăng kính phản xạ dùng để
đổi hướng chùm tia sáng 1 góc 90° đồng thời đảo ảnh trên-dưới. Lăng kính này
thường được dùng trong thị kính của Kính Thiên Văn như
một hệ đảo ảnh. Nó có dạng giống một lăng kính góc vuông chuẩn nhưng mặt cạnh
huyền được thay bằng phần "mái" cấu tạo gồm 2 mặt vuông góc với nhau.
Sau khi phản xạ toàn phần tại phần mái, hình ảnh được lật ngang. Tính trái-phải
của ảnh không thay đổi.
Phần mái đôi lúc được phủ để tạo bề mặt gương. Việc này cho
phép chùm tia sáng đi vào lăng kính có phạm vi góc tới lớn hơn, thay vì bị hạn
chế bởi hiện tượng phản xạ toàn phần.
Tránh nhầm lẫn lăng kính mái Amici-lăng kính phản xạ với
lăng kính Amici-lăng kính tán sắc.
III.3. Đường truyền của
tia sáng qua lăng kính
III.4. Các công thức
lăng kính
Khi
một tia sáng đi vào trong một lăng kính, tại điểm tới I, nó sẽ tạo ra góc tới với
phương pháp tuyến (đường thẳng vuông góc với mặt phẳng của lăng kính tại điểm tới
I), gọi là i1, một phần của ánh sáng sẽ phản xạ, phần còn lại đi vào
trong lăng kính, được gọi là hiện tượng khúc xạ. Tia sáng sẽ bị gập khúc, hoặc
khuỳnh ra tùy theo môi trường của lăng kính, vì thế nó sẽ tạo ra một góc lệch,
gọi là r1. Ánh sáng tiếp tục đi đến mặt lăng kinh bên kia, quá trình
phản xạ và khúc xạ lại diễn ra tương tự, với môi trường ngược lại. Kết quả, nó
sẽ tạo ra góc lệch r2 và góc ló i2. Công thức tổng quát đó là:
Trường
hợp tổng quát
ü Sini1 =
n.sinr1
ü sini2 =
n.sinr2
ü A = r1 + r2
ü D = i1 + i2 – A
Với n là chiết suất
lăng kính đối với mặt ngoài.
Trường hợp góc nhỏ
Khi gócA và i1
đều nhỏ (ở đây ý chỉ khoảng << 1 rad), thì mọi góc khác r1, r2,
i2, D cũng nhỏ, vì thế ta có :
ü i1 = n.r1
ü i2 = n.r2
ü A = r1 + r2
ü D = A (n – 1)
Chiều lệch của tia sáng
ü n > 1 : Lệch
về đáy lăng kính, trường hợp này thường diễn ra.
ü n < 1 : Lệch
về đỉnh lăng kính, trường hợp này ít gặp.
Độ lệch
cực tiểu
Điều
kiện : i1 = i2 ó Dmin
Khi
ấy : A = 2r1 và Dmin = 2r1 – A
Điều kiện
có tia ló
i1
≤ i0 với sinio = nsin(A – i’)
Chỉ
tính được i0 nếu A ≥ 2i’
Khi A <
2i’ thì mặt thứ hai của lăng kính luôn luôn phản xạ.
Ảnh tạo
bởi lăng kính
Chỉ
có ảnh rõ nét nếu :
ü Chùm tia tới là một
chùm nhỏ đến gần đỉnh.
ü Góc tới trung bình
của chùm tới ứng với độ lệch cực tiểu.
ü Ảnh và vật cách đều
A và hợp với A góc Dmin.
III.5. Công dụng của
lăng kính
Thông qua việc xác định góc lệch
cực tiểu của lăng kính và góc chiết quang của lăng kính, ta có thể tính được
chiết suất của lăng kính => ứng dụng đo chiết suất của chất rắn, chất lỏng bằng
giác kế.
Ánh sáng dùng trong thí nghiệm
là ánh sáng đơn giản trường hợp ánh sáng tới từ nguồn sáng phức tạp thì tia ló
sẽ bị tách ra thành nhiều thành phần ánh sáng có mầu sắc khác nhau.
Hình minh họa hiện tượng tán sắc ánh sáng
Hình minh họa hiện tượng tán sắc ánh sáng
Một
số lăng kính có cấu tạo hình học và chất liệu đặc biệt có khả năng vừa cho ánh
sáng đi qua vừa phản xạ toàn phần dùng
đề điều chỉnh đường đi của tia sáng hoặc tạo ảnh thuận chiều trong máy ảnh, ống
nhòm ...(dựa vào phần III.2. Các loại lăng kính).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét